Phụ nữ mang thai là gì? Các công bố khoa học về Phụ nữ mang thai

Phụ nữ mang thai là những phụ nữ đang có thai, có thai được hiểu là mang một thai nhi trong tử cung. Thời gian mang thai bắt đầu từ khi phôi được thụ tinh cho đ...

Phụ nữ mang thai là những phụ nữ đang có thai, có thai được hiểu là mang một thai nhi trong tử cung. Thời gian mang thai bắt đầu từ khi phôi được thụ tinh cho đến khi sinh ra. Trong quá trình mang thai, cơ thể của phụ nữ trải qua nhiều sự thay đổi về cảm xúc, thể chất và hormone để hỗ trợ sự phát triển của thai nhi.
Khi phụ nữ mang thai, một quá trình sinh sản đặc biệt xảy ra trong cơ thể của họ. Dưới tác động của hormone, quá trình thụ tinh xảy ra khi tinh trùng từ nam giới gặp trứng được phôi tinh trong tử cung của phụ nữ. Sau đó, trứng phôi tiếp tục phát triển thành một phôi thai.

Thời gian thai kỳ được chia thành ba giai đoạn chính, gồm:

- Thai kỳ đầu: Từ trứng phôi được thụ tinh cho đến tuần thứ 12. Trong giai đoạn này, các cơ quan và hệ thống cơ bản của thai nhi phát triển, và nhiều phụ nữ trải qua các triệu chứng sáng chói như mệt mỏi, buồn nôn và chậm tiêu hóa.

- Thai kỳ giữa: Từ tuần thứ 13 đến tuần thứ 27. Thai nhi phát triển nhanh chóng trong giai đoạn này. Các cơ quan và hệ thống hoàn chỉnh hơn, và phụ nữ có thể cảm nhận các cử động của thai nhi. Điều quan trọng trong giai đoạn này là chăm sóc sức khỏe và tiếp tục thực hiện các siêu âm và kiểm tra thai kỳ.

- Thai kỳ cuối: Từ tuần thứ 28 cho đến lúc sinh. Đây là giai đoạn cuối cùng của thai kỳ, khi thai nhi phát triển thành một em bé hoàn chỉnh. Phụ nữ có thể trải qua các triệu chứng như áp lực trên bụng, khó thở và tiểu nhiều hơn. Chuẩn bị cho quá trình sinh, bao gồm việc xác định địa điểm sinh, lựa chọn phương pháp sinh và chuẩn bị cảm xúc và tinh thần.

Phụ nữ mang thai cần chú ý đến việc ăn uống lành mạnh, tập thể dục nhẹ nhàng, thường xuyên thăm khám thai kỳ và tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ để đảm bảo sức khỏe tốt cho mẹ và thai nhi.
Tôi xin lưu ý rằng tôi chỉ là một trí tuệ nhân tạo với thông tin tổng quát, do đó, tôi chỉ có thể cung cấp thông tin cơ bản về mang thai. Dưới đây là một số chi tiết thêm về phụ nữ mang thai:

1. Sự phát triển của thai nhi: Trong quá trình mang thai, thai nhi trải qua sự phát triển từ một tế bào phôi thành một sinh vật đã phát triển hoàn chỉnh. Quá trình này diễn ra thông qua các giai đoạn khác nhau và bao gồm hình thành các hệ thống cơ quan như tim, não, phổi, gan và thận.

2. Các triệu chứng: Phụ nữ mang thai có thể trải qua một loạt các triệu chứng khác nhau như buồn nôn, nổi mụn, sự mắc bệnh và biến đổi cảm xúc. Mỗi phụ nữ có thể có các trải nghiệm khác nhau và mức độ triệu chứng cũng có thể thay đổi.

3. Chăm sóc sức khỏe: Phụ nữ mang thai cần chú ý đến chăm sóc sức khỏe của mình và thai nhi. Điều này bao gồm việc hạn chế tiếp xúc với các chất gây hại như thuốc lá, cồn và chất kích thích khác. Bổ sung dinh dưỡng là quan trọng, đảm bảo tinh thần thoải mái và thường xuyên đi khám thai kỳ để theo dõi sự phát triển của thai nhi.

4. Rủi ro và biểu hiện: Mang thai có thể mang đến một số rủi ro và biểu hiện có thể xuất hiện. Những rủi ro bao gồm tử vong thai nhi, vô sinh, sảy thai và các vấn đề sức khỏe khác có thể ảnh hưởng đến thai nhi hoặc phụ nữ. Nếu bạn có bất kỳ vấn đề nào liên quan đến thai sản, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa.

Mặc dù tôi cung cấp thông tin căn bản, tuy nhiên, thông tin chi tiết và cá nhân hóa vẫn nên được tìm hiểu từ các nguồn uy tín như bác sĩ, nhân viên y tế hoặc các nguồn tài liệu chính thống.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phụ nữ mang thai":

Bổ sung axit folic trước và trong thai kỳ trong Nghiên cứu Epigenetics ở trẻ sơ sinh (NEST) Dịch bởi AI
BMC Public Health - Tập 11 - Trang 1-8 - 2011
Axit folic (FA) được thêm vào thực phẩm trong quá trình tăng cường có độ khả dụng sinh học từ 70-85% so với 50% acid folate có trong thực phẩm tự nhiên. Do đó, nếu bổ sung FA cũng được thực hiện trong thai kỳ, cả mẹ và thai nhi có thể tiếp xúc với FA vượt quá giới hạn tối đa được khuyến nghị (TUL) 1.000 microgam mỗi ngày (μg/ngày) của Viện Y học cho phụ nữ mang thai trưởng thành. Mục tiêu chính là ước tính tỷ lệ phụ nữ sử dụng liều axit folic (FA) vượt quá TUL trước và trong thai kỳ, và xác định các yếu tố liên quan đến việc sử dụng FA cao. Trong giai đoạn 2005-2008, dữ liệu liên quan đến việc bổ sung chế độ ăn trước và trong thai kỳ đã được thu thập thông qua phỏng vấn 539 phụ nữ mang thai tham gia tại hai cơ sở chăm sóc sản khoa ở quận Durham, North Carolina. Trước thai kỳ, 51% phụ nữ báo cáo bổ sung FA và 66% báo cáo đã sử dụng bổ sung này trong thai kỳ. Trước thai kỳ, 11,9% (95% CI = 9,2%-14,6%) phụ nữ báo cáo sử dụng FA với liều vượt quá TUL 1.000 μg/ngày, và tỷ lệ tương tự cũng ghi nhận trong thời gian thai kỳ. Trước thai kỳ, phụ nữ người da trắng có khả năng sử dụng liều FA vượt quá TUL cao hơn (OR = 2,99; 95% = 1,28-7,00) so với phụ nữ người da đen, trong khi phụ nữ có các bệnh mãn tính có khả năng thấp hơn trong việc sử dụng liều FA vượt quá TUL (OR = 0,48; 95%CI = 0,21-0,97). So với phụ nữ người da đen, phụ nữ người da trắng cũng ghi nhận việc tiêu thụ FA với liều vượt quá TUL trong thai kỳ nhiều hơn (OR = 5,09; 95%CI = 2,07-12,49). Năm mươi mốt phần trăm phụ nữ báo cáo đã tiêu thụ một số axit folic trước và 66% trong thai kỳ, tương ứng, và hơn một trong mười phụ nữ đã sử dụng bổ sung FA với liều vượt quá TUL. Phụ nữ người da trắng có khả năng cao hơn trong việc báo cáo tiêu thụ FA cao. Một nghiên cứu hiện đang diễn ra để xác định các tác động di truyền và phi gen độc hại có thể của các liều cao này.
#Axit folic #bổ sung chế độ ăn uống #thai kỳ #mức TUL #phụ nữ mang thai
Một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp về dịch tễ học và gánh nặng của huyết khối tĩnh mạch ở phụ nữ mang thai Dịch bởi AI
International Journal of Gynecology & Obstetrics - Tập 132 Số 1 - Trang 4-10 - 2016
Tóm tắtĐặt vấn đề

Các vấn đề huyết khối tĩnh mạch liên quan đến thai kỳ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong ở mẹ.

Mục tiêu

Xem xét dịch tễ học, gánh nặng nhân văn và kinh tế của huyết khối tĩnh mạch liên quan đến thai kỳ.

Chiến lược tìm kiếm

Các cơ sở dữ liệu Medline, Cochrane Central Register of Controlled Trials, Econlit, Science Direct, JSTOR, Oxford Journals và Cambridge Journals đã được tìm kiếm cho các báo cáo được công bố từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2012. Các từ khóa liên quan đến huyết khối tĩnh mạch, thai kỳ, dịch tễ học và gánh nặng nhân văn và kinh tế đã được kết hợp.

Tiêu chí lựa chọn

Các nghiên cứu đủ điều kiện đã đánh giá tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong, tỷ lệ tái phát, biến chứng, chất lượng cuộc sống và gánh nặng kinh tế của huyết khối tĩnh mạch ở phụ nữ mang thai và đã được công bố bằng tiếng Anh.

Thu thập và phân tích dữ liệu

Thông tin nền về nghiên cứu, đặc điểm của người tham gia, và kết quả nghiên cứu đã được thu thập. Các phân tích tổng hợp dữ liệu đã được thực hiện.

Kết quả chính

Hai mươi nghiên cứu đã được đưa vào, không nghiên cứu nào điều tra gánh nặng kinh tế. Tỷ lệ mắc huyết khối tĩnh mạch liên quan đến thai kỳ là 1,2 trên 1000 ca sinh. Tỷ lệ tử vong do huyết khối tĩnh mạch là 0,68% và tỷ lệ tái phát là 4,27%. Rủi ro chảy máu lớn là 1,05%. Hội chứng sau huyết khối dường như có tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống.

Kết luận

Mặc dù tỷ lệ mắc huyết khối tĩnh mạch được phát hiện là tương đối thấp trong thai kỳ và giai đoạn sau sinh, gánh nặng lâm sàng thì cao. Nghiên cứu thêm là cần thiết để đánh giá gánh nặng kinh tế của huyết khối tĩnh mạch liên quan đến thai kỳ.

#Huyết khối tĩnh mạch #thai kỳ #dịch tễ học #gánh nặng kinh tế
Nghiên cứu khả thi nhằm thúc đẩy trọng lượng tối ưu ở các bà mẹ mang thai lần đầu và trẻ sơ sinh của họ: Những bài học rút ra từ một cộng đồng biên giới Mỹ-Mexico Dịch bởi AI
Maternal and Child Health Journal - Tập 23 - Trang 578-584 - 2019
Giới thiệu Tỷ lệ béo phì ở phụ nữ và trẻ em người Tây Ban Nha tại Hoa Kỳ là rất cao. Việc ngăn ngừa béo phì ở trẻ em bắt đầu từ thai kỳ là điều mong muốn, nhưng các nghiên cứu cho thấy kết quả không đồng nhất. Phương pháp Chúng tôi đã thử nghiệm một can thiệp thí điểm nhằm thúc đẩy trọng lượng thai kỳ và trọng lượng trẻ sơ sinh tối ưu với những phụ nữ mang thai lần đầu người Tây Ban Nha tại một Trung tâm Y tế Được Chứng Nhận Liên Bang (FQHC) ở biên giới Mỹ-Mexico. Can thiệp bao gồm các hoạt động thể dục, dinh dưỡng và cho con bú do promotora điều phối (n = 23), được hỗ trợ bởi tin nhắn qua văn bản/truyền thông xã hội (tin nhắn văn bản trong thai kỳ, trang Facebook riêng sau sinh). Các biện pháp bao gồm nhân khẩu học, chỉ số khối cơ thể (BMI), tăng/giữ cân, cho bú trẻ sơ sinh và tỷ lệ tham gia. Kết quả Hầu hết phụ nữ sinh ra tại Mỹ (73%), chủ yếu nói tiếng Tây Ban Nha (83%), có trình độ học vấn ≤ trung học phổ thông (65%), và có trọng lượng thừa cân/béo phì (56%). Tỷ lệ duy trì tham gia cho thành phần thai kỳ là vừa phải (50%), được hỗ trợ bởi chương trình nhắn tin SMS. Tỷ lệ duy trì của mẫu sau sinh còn lại, được hỗ trợ bởi một trang Facebook® riêng tư, là 100%. Trong số phụ nữ tham gia đều đặn các buổi họp nhóm trước và sau sinh, hơn 70% nằm trong khoảng 5 lbs trọng lượng trước thai kỳ tại tháng thứ 6 sau sinh. Một nhóm Facebook® riêng tư là khả thi cho sự hỗ trợ ngoài lớp học, bao gồm cả những phụ nữ có di chuyển thường xuyên qua biên giới. Thảo luận Trong khi can thiệp được đón nhận tốt, gần 2/3 số người tham gia ban đầu không theo dõi sau khi sinh. Quan trọng là, các phát hiện cho thấy việc sử dụng truyền thông xã hội (trang Facebook® riêng tư) khả thi hơn so với chương trình nhắn tin SMS và có thể là một cách tiếp cận thành công để tiếp cận và thu hút phụ nữ sống trong môi trường di động và xuyên quốc gia. Các nghiên cứu trong tương lai nên xem xét truyền thông xã hội như một công cụ can thiệp nhằm ảnh hưởng đến trọng lượng tối ưu và khuyến khích các hành vi lành mạnh ở các bà mẹ mang thai lần đầu sống gần biên giới Mỹ-Mexico.
#béo phì #phụ nữ mang thai #sức khỏe #can thiệp #truyền thông xã hội
Các đặc điểm lâm sàng của phụ nữ mang thai, can thiệp trong khi sinh và thời gian chuyển dạ tại đô thị Trung Quốc: một nghiên cứu cắt ngang đa trung tâm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 20 Số 1 - 2020
Tóm tắt Bối cảnh

Xu hướng toàn cầu ngày càng tăng đối với sự y tế hóa quá mức trong lao động và sinh nở. Nghiên cứu hiện tại nhằm điều tra các đặc điểm lâm sàng của phụ nữ mang thai, các can thiệp trong quá trình sinh, thời gian chuyển dạ và các yếu tố liên quan; cũng như so sánh sự khác biệt của những biến số này giữa những bà mẹ sinh lần đầu (nullipara) và những bà mẹ đã sinh (multipara) tại Trung Quốc.

Phương pháp

Một nghiên cứu cắt ngang đa trung tâm đã được thực hiện tại ba bệnh viện hạng ba của Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải, Trung Quốc. Tổng cộng 1523 người tham gia đã được tiếp cận và đánh giá tính đủ điều kiện. Dữ liệu về các đặc điểm xã hội-dân số của phụ nữ, các can thiệp trong khi sinh và thời gian chuyển dạ đã được đo lường và thu thập. Phân tích sống Kaplan-Meier đã được thực hiện để trình bày các đường cong thời gian chuyển dạ tổng thể theo paritas. Sau khi thực hiện biến đổi z đối với thời gian chuyển dạ, hồi quy tuyến tính đa biến đã được sử dụng để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu và xác định các mối liên hệ độc lập giữa các yếu tố có thể liên quan và kết quả chính về thời gian chuyển dạ.

Kết quả

Tổng cộng, 1209 phụ nữ đủ điều kiện đồng ý tham gia và được điều tra. Tỷ lệ các can thiệp khác nhau trong khi sinh lần lượt là 27,4% đối với việc sử dụng thủng ối, 37,9% đối với việc sử dụng oxytocin, 53,0% đối với việc theo dõi thai nhi điện tử liên tục, và 52,9% đối với việc sử dụng gây tê ngoài màng cứng. Đường cong thời gian chuyển dạ tổng thể khác biệt đáng kể giữa bà mẹ sinh lần đầu và bà mẹ đã sinh (P < .001). Trong số 1209 người tham gia, 983 (81,3%) phụ nữ cuối cùng đã sinh thành công bằng phương pháp sinh thường trong khi 226 (18,7%) phụ nữ kết thúc bằng phẫu thuật lấy thai trong quá trình sinh. Thời gian trung bình của toàn bộ giai đoạn chuyển dạ ở nhóm bà mẹ sinh lần đầu [9,38 (6,33,14,10) giờ] dài hơn đáng kể so với nhóm bà mẹ đã sinh [5,08 (3,00,7,83) giờ] (P < .001). Các yếu tố sau đây có liên quan độc lập với thời gian chuyển dạ dài hơn: gây tê ngoài màng cứng (P < .001), sinh lần đầu (P < .001), theo dõi thai nhi điện tử liên tục (P = .035), và tăng cân lúc sinh (P = .005).

Kết luận

Các can thiệp y tế trong khi sinh trở thành thực hành sản khoa phổ biến tại các đô thị Trung Quốc. Các biến số đa yếu tố có liên quan độc lập với thời gian chuyển dạ dài hơn đã được xác định, bao gồm gây tê ngoài màng cứng, sinh lần đầu, theo dõi thai nhi điện tử liên tục, và tăng cân lúc sinh. Cần nghiên cứu thêm để xác thực các biến số này và xác định các yếu tố có thể điều chỉnh trong quản lý chuyển dạ. Các mô hình chăm sóc có tỷ lệ can thiệp thấp, chẳng hạn như các mô hình chăm sóc do nữ hộ sinh dẫn dắt, nên được phát triển và thực hiện tại Trung Quốc.

Gắn kết mẹ - thai nhi ở phụ nữ mang thai người Ý: Những ảnh hưởng đa chiều và mối liên hệ với việc chăm sóc trẻ sơ sinh trong năm đầu đời Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắt Thông tin nền

Gắn kết mẹ - thai nhi (MFA) mô tả các khía cạnh về nhận thức, cảm xúc và hành vi trong mối quan hệ giữa mẹ và thai nhi phát triển trong suốt thời gian mang thai.

Chúng tôi trình bày hai nghiên cứu thực hiện trên phụ nữ mang thai người Ý. Trong Nghiên cứu I, chúng tôi hướng tới việc khám phá những mối liên hệ đa diện của MFA với các biến quan trọng cho một thai kỳ khỏe mạnh (ví dụ: sức khỏe tâm thần của mẹ, mối quan hệ của cặp đôi). Trong Nghiên cứu II, chúng tôi điều tra vai trò dự đoán của MFA đối với việc chăm sóc trẻ sơ sinh mà mẹ thực hiện trong những tháng đầu đời của trẻ.

Phương pháp

Trong Nghiên cứu I, 113 phụ nữ mang thai người Ý đã được đánh giá về MFA (Thang đo Gắn kết Mẹ Từ Giai Đoạn Thai Kỳ, MAAS), trầm cảm ở mẹ (Bảng đánh giá trầm cảm Beck - phiên bản II, BDI-II), lo âu ở mẹ (Thang đo lo âu trạng thái và phẩm chất – phiên bản trạng thái, STAI), sự điều chỉnh của cặp đôi (Thang đo điều chỉnh đôi, DAS) và sự chăm sóc cha mẹ mà họ cảm nhận được (Công cụ Nối kết Cha Mẹ, PBI). Trong Nghiên cứu II, 29 cặp mẹ - trẻ sơ sinh được theo dõi khi trẻ 4 tháng tuổi để đánh giá các biến quan sát liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh của mẹ thông qua Thang đo Sẵn có Cảm xúc (EAS) và để kiểm tra sự liên quan với MFA trong thai kỳ.

Kết quả

Nghiên cứu I cho thấy một mối liên hệ đáng kể giữa MFA và chất lượng mối quan hệ của cặp đôi (β = .49, P < .001) và giữa MFA và hồi tưởng về những kỷ niệm về sự chăm sóc nhận được trong thời thơ ấu (β = .22, P = .025). Nghiên cứu II cho thấy ảnh hưởng dự đoán của MFA đối với cấu trúc hành vi chăm sóc của mẹ quan sát được trong các tương tác giữa mẹ và trẻ sơ sinh ở 4 tháng tuổi (β = 0.36, P = .046).

Kết luận

Nghiên cứu chỉ ra những bối cảnh mối quan hệ quan trọng có thể nhận được sự chăm sóc và hỗ trợ trong suốt thời kỳ mang thai để bảo vệ MFA. Các phát hiện cũng cung cấp những cái nhìn sâu sắc về vai trò của MFA trong việc chăm sóc trẻ sơ sinh ở giai đoạn đầu, cho thấy rằng MFA có thể là một ứng cử viên cho một yếu tố có thể trước đó trong các quá trình tương tác giữa mẹ và trẻ.

KHẢO SÁT TỈ LỆ TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN PHỤ NỮ MANG THAI Ở 3 THÁNG CUỐI THAI KỲ TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Phụ nữ mang thai bị trầm cảm thường có diễn tiến nặng hơn phụ nữ không mang thai vì sự xuất hiện trạng thái lo âu rõ rệt, thậm chí có cơn hoảng loạn, có thể xuất hiện ý định tự hủy hoại bản thân, tự tử. Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan trầm cảm ở phụ nữ mang thai 3 tháng cuối tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương bằng việc sử dụng thang đo trầm cảm EPDS. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang đánh giá nguy cơ trầm cảm khảo sát qua 310 phụ nữ mang thai từ ≥ 28 tuần đến khám thai tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong giai đoạn 20/01/2021 – 20/04/2021. Thang đo EPDS phiên bản tiếng Việt sử dụng sàng lọc nguy cơ trầm cảm ở tất cả phụ nữ mang thai 3 tháng cuối, với điểm cắt ≥ 13 điểm được xem là có nguy cơ trầm cảm trước sinh. Các thai phụ có nguy cơ cao được theo dõi bởi chuyên khoa tâm thần và bác sĩ sản khoa cho đến khi sinh và đánh giá các biến cố khi sinh. Kết quả: Tỷ lê thai phụ mang thai giai đoạn ≥28 tuần có nguy cơ trầm cảm trước sinh (EPDS ≥ 13) chiếm 28,7% [KTC95%: 23,2 – 33,5]. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến sự xuất hiện trầm cảm trước sinh bao gồm: thai phụ thuộc nhóm tuổi >25 tuổi tăng nguy cơ TCTS gấp 3,9 lần (KTC 95%: 1,3 - 12,5, p=0,018), thai phụ không tôn giáo và có tình trạng kinh tế khó khăn (tăng TCTS lần lượt là 7,01 lần [KTC 95%: 1,1 - 8,1, p=0,036]  và 3,03 lần [KTC 95%: 1,1 - 8,1, p=0,026]. Trạng thái tinh thần không ổn định (thai phụ có lo lắng trong quá trình mang thai), các xung đột trong mối quan hệ (bất hoà với gia đình chồng và thiếu người tâm sự) làm tăng nguy cơ TCTS lần lượt  8,5 lần [KTC 95%: 3,9-18,3; p=0,000] 6,3 lần [KTC 95%: 1,6-25,3; p=0,009] và gấp 2,7 lần [KTC 95%: 1,2-6,1; p=0,019]. Thai phụ không nhận được tư vấn từ cán bộ Y tế tăng nguy cơ TCTS gấp 2,5 lần [KTC 95%:1,1-5,4; p=0,019]. Kết luận: Trầm cảm trước sinh cần được sàng lọc và điều trị kịp thời để hạn chế các kết cục thai kỳ xấu cho thai phụ và thai nhi. Sử dụng thang đo EPDS với điểm cắt ≥ 13 là một công cụ hữu hiệu trong tầm soát nguy cơ trầm cảm trước sinh.
TÌNH TRẠNG THIẾU MÁU, THIẾU SẮT VÀ THIẾU VITAMIN A Ở PHỤ NỮ TRƯỚC KHI MANG THAI TẠI HUYỆN CẨM KHÊ TỈNH PHÚ THỌ
Mục tiêu: Xác định tình trạng thiếu máu, thiếu sắt và thiếu vitamin A (Vit. A), ở phụ nữ trước khi mang thai lần đầu (PNTKMTLĐ) ở Cẩm Khê tỉnh Phú Thọ (CK-PT). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu điều tra cắt ngang trên 411 phụ nữ tuổi từ 18-30 chưa từng có thai sống tại CKPT. Tình trạng sắt được đánh giá bằng các chỉ số: Transferrin receptor, Ferritin, lượng sắt trong cơ thể, chỉ số CRP, AGP để loại trừ nhiễm trùng. Chỉ số Hb được dùng để đánh giá tình trạng thiếu máu. Tình trạng Vit.A được đánh giá bằng các chỉ số: Vit.A huyết thanh và Retinol-Binding Protein (RBP). Kết quả: Tỷ lệ thiếu sắt cạn kiệt ở nhóm thiếu máu (10,1%) cao hơn so với nhóm không thiếu máu (3,2%) với p<0,01. Ở nhóm thiếu sắt, nồng độ RBP (1,06 ± 0,39 μmol/L) thấp hơn so với nhóm không thiếu sắt (1,15 ± 0,41 μmol/L) và nồng độ CRP: 0,3 (0,1; 0,9) mg/L cao hơn so với nhóm không thiếu sắt (p<0,01). Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu của PNTKMTLĐ ở CK-PT là 20,7% thuộc mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, trong đó 43,0% không nhiễm trùng bị thiếu sắt; Tỷ lệ thiếu sắt: 37,9%; Tỷ lệ thiếu Vit.A:10,2%.
#Thiếu máu #thiếu sắt #thiếu vitamin A #phụ nữ 18-30 tuổi #phụ nữ trước mang thai #phú thọ
Depression among pregnant women and some related factors in Dong Anh district, Ha Noi City
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 1 - Trang 62 - 67 - 2016
Trầm cảm trong thai kỳ là một rối loạn tâm thần phổ biến ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tỷ lệ trầm cảm trong mang thai và một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trong mang thai. Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu thuần tập với 1274 phụ nữ mang thai tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Những phụ nữ này được phỏng vấn hai lần: lần đầu khi thai dưới 24 tuần và lần thứ hai khi thai được 30 đến 34 tuần. Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm trong mang thai là 5% (95%CI: 3,77-6,16). Các yếu tố liên quan với trầm cảm trong mang thai bao gồm bạo lực gia đình, tiền sử thai lưu, lo âu trong mang thai và hỗ trợ gia đình trong khi mang thai. Kết luận: Những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết phải sàng lọc trầm cảm và các yếu tố nguy cơ trong khi mang thai ở những nơi chăm sóc sẵn có để cải thiện sức khỏe bà mẹ và thai nhi.
#Trầm cảm ở phụ nữ mang thai #yếu tố liên quan #yếu tố nguy cơ #tỷ lệ.
THỰC HÀNH DINH DƯỠNG VÀ MỨC TĂNG CÂN TRONG THAI KỲ CỦA PHỤ NỮ MANG THAI TẠI HÀ NỘI NĂM 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực hành dinh dưỡng và mức tăng cân trong thai kỳ của phụ nữ mang thai tại Hà Nội năm 2020. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ tham gia nghiên cứu có BMI ở giới hạn bình thường trước khi mang thai chiếm tỷ lệ cao nhất là 80,2%. Phụ nữ có BMI<18,5 và BMI≥ 25 chiếm tỷ lệ lần lượt là 15,8% và 4%. 97,7% phụ nữ tham gia nghiên cứu bổ sung thực phẩm chức năng trong thai kỳ. Tỷ lệ phụ nữ tăng mức tiêu thụ thịt, cá, trứng, đậu đỗ ở 3 giai đoạn thai kỳ chiếm tỷ lệ cao nhất, tương ứng với 93,7%; 95,7% và 96,4%. Tỷ lệ tăng cân đúng mức khuyến nghị của IOM năm 2009 của phụ nữ thiếu cân, cân nặng bình thường và thừa cân/béo phì lần lượt là 22,9%; 40,3% và 50%. Phụ nữ có BMI< 18,5 trước khi mang thai có mức tăng cân dưới mức khuyến nghị chiếm 66,7%. Nhóm phụ nữ có BMI ≥ 25 trước mang thai có tỷ lệ tăng cân trên mức khuyến nghị cao nhất, chiếm 41,7%. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy thực hành dinh dưỡng và mức tăng cân thai kỳ của phụ nữ Hà Nội trong quá trình mang thai năm 2020.
#Thực hành dinh dưỡng #tăng cân thai kỳ #phụ nữ mang thai #Hà Nội
Xác định các lĩnh vực mục tiêu trong nỗ lực cung cấp thông tin về thuốc cho phụ nữ mang thai và cho con bú thông qua việc xem xét các câu hỏi gửi tới SafeMotherMedicine: Một dịch vụ thông tin thuốc công cộng qua mạng của Na Uy Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 22 Số 1
Tóm tắt Đặt vấn đề

Thông tin trực tuyến về sự an toàn của các loại thuốc trong thời kỳ mang thai và cho con bú thường mâu thuẫn, dẫn đến lo âu và việc ngừng sử dụng thuốc. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các câu hỏi gửi tới SafeMotherMedicine, một dịch vụ thông tin thuốc trên web dành cho phụ nữ mang thai và cho con bú, nhằm xác định các lĩnh vực mục tiêu có thể định hướng cho việc phát triển thông tin thuốc sau này dành cho phụ nữ mang thai và cho con bú.

Phương pháp

Cơ sở dữ liệu SafeMotherMedicine chứa tất cả các câu hỏi nhận được thông qua dịch vụ trên web và các câu trả lời tương ứng. Một phân tích cơ sở dữ liệu hồi cứu các câu hỏi nhận được từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 9 năm 2018 đã được thực hiện, sử dụng thống kê mô tả.

Kết quả

Tổng cộng đã nhận được 11.618 câu hỏi, trong đó có 5.985 câu hỏi (51.5%) liên quan đến thai kỳ, 4.878 câu hỏi (42.0%) liên quan đến cho con bú, và 755 câu hỏi (6.5%) liên quan đến cả hai tình trạng. Các loại thuốc trong câu hỏi đại diện cho tất cả các nhóm điều trị, với paracetamol (7.0%), ibuprofen (4.1%), cetirizine (3.3%), desloratadine (3.2%) và meclizine (2.8%) là năm loại thuốc hàng đầu. 20 loại thuốc thường xuyên được hỏi về thai kỳ, cho con bú hoặc cả hai, chiếm một nửa tổng số câu hỏi và được sử dụng để xác định các lĩnh vực mục tiêu. Những lĩnh vực này bao gồm cả việc giảm triệu chứng các phàn nàn thường gặp như đau, buồn nôn và viêm mũi, cũng như điều trị các tình trạng mãn tính như dị ứng, rối loạn tâm thần và hen suyễn. Phân tích một tập hợp con các câu hỏi cho thấy hầu hết các câu hỏi này được đặt ra trước khi sử dụng thuốc trong thai kỳ hiện tại (49%) hoặc trong thời gian cho con bú (72%). Các câu hỏi liên quan đến việc sử dụng thuốc trong tất cả các giai đoạn của thai kỳ và cho con bú. Đối với 81.6% các câu hỏi liên quan đến thai kỳ, và 84.2% các câu hỏi liên quan đến cho con bú, thông tin về nguy cơ không hoặc thấp đối với thai nhi hoặc trẻ đang bú mẹ đã được SafeMotherMedicine cung cấp.

Kết luận

Chúng tôi đã phát hiện rằng các lĩnh vực mục tiêu cho thông tin thuốc dành cho phụ nữ mang thai và cho con bú bao gồm cả việc giảm triệu chứng các phàn nàn thường gặp cũng như điều trị các tình trạng mãn tính. Các câu hỏi liên quan đến một loạt các loại thuốc và liên quan đến việc sử dụng trong tất cả các giai đoạn của thai kỳ và cho con bú. Các phát hiện của chúng tôi chỉ ra rằng việc phát triển thông tin thuốc tập trung vào các lĩnh vực mục tiêu đã xác định sẽ đáp ứng nhu cầu thông tin cho một tỷ lệ lớn trong nhóm bệnh nhân này.

Tổng số: 162   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10