Phụ nữ mang thai là gì? Các công bố khoa học về Phụ nữ mang thai

Phụ nữ mang thai là những phụ nữ đang có thai, có thai được hiểu là mang một thai nhi trong tử cung. Thời gian mang thai bắt đầu từ khi phôi được thụ tinh cho đ...

Phụ nữ mang thai là những phụ nữ đang có thai, có thai được hiểu là mang một thai nhi trong tử cung. Thời gian mang thai bắt đầu từ khi phôi được thụ tinh cho đến khi sinh ra. Trong quá trình mang thai, cơ thể của phụ nữ trải qua nhiều sự thay đổi về cảm xúc, thể chất và hormone để hỗ trợ sự phát triển của thai nhi.
Khi phụ nữ mang thai, một quá trình sinh sản đặc biệt xảy ra trong cơ thể của họ. Dưới tác động của hormone, quá trình thụ tinh xảy ra khi tinh trùng từ nam giới gặp trứng được phôi tinh trong tử cung của phụ nữ. Sau đó, trứng phôi tiếp tục phát triển thành một phôi thai.

Thời gian thai kỳ được chia thành ba giai đoạn chính, gồm:

- Thai kỳ đầu: Từ trứng phôi được thụ tinh cho đến tuần thứ 12. Trong giai đoạn này, các cơ quan và hệ thống cơ bản của thai nhi phát triển, và nhiều phụ nữ trải qua các triệu chứng sáng chói như mệt mỏi, buồn nôn và chậm tiêu hóa.

- Thai kỳ giữa: Từ tuần thứ 13 đến tuần thứ 27. Thai nhi phát triển nhanh chóng trong giai đoạn này. Các cơ quan và hệ thống hoàn chỉnh hơn, và phụ nữ có thể cảm nhận các cử động của thai nhi. Điều quan trọng trong giai đoạn này là chăm sóc sức khỏe và tiếp tục thực hiện các siêu âm và kiểm tra thai kỳ.

- Thai kỳ cuối: Từ tuần thứ 28 cho đến lúc sinh. Đây là giai đoạn cuối cùng của thai kỳ, khi thai nhi phát triển thành một em bé hoàn chỉnh. Phụ nữ có thể trải qua các triệu chứng như áp lực trên bụng, khó thở và tiểu nhiều hơn. Chuẩn bị cho quá trình sinh, bao gồm việc xác định địa điểm sinh, lựa chọn phương pháp sinh và chuẩn bị cảm xúc và tinh thần.

Phụ nữ mang thai cần chú ý đến việc ăn uống lành mạnh, tập thể dục nhẹ nhàng, thường xuyên thăm khám thai kỳ và tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ để đảm bảo sức khỏe tốt cho mẹ và thai nhi.
Tôi xin lưu ý rằng tôi chỉ là một trí tuệ nhân tạo với thông tin tổng quát, do đó, tôi chỉ có thể cung cấp thông tin cơ bản về mang thai. Dưới đây là một số chi tiết thêm về phụ nữ mang thai:

1. Sự phát triển của thai nhi: Trong quá trình mang thai, thai nhi trải qua sự phát triển từ một tế bào phôi thành một sinh vật đã phát triển hoàn chỉnh. Quá trình này diễn ra thông qua các giai đoạn khác nhau và bao gồm hình thành các hệ thống cơ quan như tim, não, phổi, gan và thận.

2. Các triệu chứng: Phụ nữ mang thai có thể trải qua một loạt các triệu chứng khác nhau như buồn nôn, nổi mụn, sự mắc bệnh và biến đổi cảm xúc. Mỗi phụ nữ có thể có các trải nghiệm khác nhau và mức độ triệu chứng cũng có thể thay đổi.

3. Chăm sóc sức khỏe: Phụ nữ mang thai cần chú ý đến chăm sóc sức khỏe của mình và thai nhi. Điều này bao gồm việc hạn chế tiếp xúc với các chất gây hại như thuốc lá, cồn và chất kích thích khác. Bổ sung dinh dưỡng là quan trọng, đảm bảo tinh thần thoải mái và thường xuyên đi khám thai kỳ để theo dõi sự phát triển của thai nhi.

4. Rủi ro và biểu hiện: Mang thai có thể mang đến một số rủi ro và biểu hiện có thể xuất hiện. Những rủi ro bao gồm tử vong thai nhi, vô sinh, sảy thai và các vấn đề sức khỏe khác có thể ảnh hưởng đến thai nhi hoặc phụ nữ. Nếu bạn có bất kỳ vấn đề nào liên quan đến thai sản, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa.

Mặc dù tôi cung cấp thông tin căn bản, tuy nhiên, thông tin chi tiết và cá nhân hóa vẫn nên được tìm hiểu từ các nguồn uy tín như bác sĩ, nhân viên y tế hoặc các nguồn tài liệu chính thống.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phụ nữ mang thai":

Các đặc điểm lâm sàng của phụ nữ mang thai, can thiệp trong khi sinh và thời gian chuyển dạ tại đô thị Trung Quốc: một nghiên cứu cắt ngang đa trung tâm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 20 Số 1 - 2020
Tóm tắt Bối cảnh

Xu hướng toàn cầu ngày càng tăng đối với sự y tế hóa quá mức trong lao động và sinh nở. Nghiên cứu hiện tại nhằm điều tra các đặc điểm lâm sàng của phụ nữ mang thai, các can thiệp trong quá trình sinh, thời gian chuyển dạ và các yếu tố liên quan; cũng như so sánh sự khác biệt của những biến số này giữa những bà mẹ sinh lần đầu (nullipara) và những bà mẹ đã sinh (multipara) tại Trung Quốc.

Phương pháp

Một nghiên cứu cắt ngang đa trung tâm đã được thực hiện tại ba bệnh viện hạng ba của Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải, Trung Quốc. Tổng cộng 1523 người tham gia đã được tiếp cận và đánh giá tính đủ điều kiện. Dữ liệu về các đặc điểm xã hội-dân số của phụ nữ, các can thiệp trong khi sinh và thời gian chuyển dạ đã được đo lường và thu thập. Phân tích sống Kaplan-Meier đã được thực hiện để trình bày các đường cong thời gian chuyển dạ tổng thể theo paritas. Sau khi thực hiện biến đổi z đối với thời gian chuyển dạ, hồi quy tuyến tính đa biến đã được sử dụng để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu và xác định các mối liên hệ độc lập giữa các yếu tố có thể liên quan và kết quả chính về thời gian chuyển dạ.

Kết quả

Tổng cộng, 1209 phụ nữ đủ điều kiện đồng ý tham gia và được điều tra. Tỷ lệ các can thiệp khác nhau trong khi sinh lần lượt là 27,4% đối với việc sử dụng thủng ối, 37,9% đối với việc sử dụng oxytocin, 53,0% đối với việc theo dõi thai nhi điện tử liên tục, và 52,9% đối với việc sử dụng gây tê ngoài màng cứng. Đường cong thời gian chuyển dạ tổng thể khác biệt đáng kể giữa bà mẹ sinh lần đầu và bà mẹ đã sinh (P < .001). Trong số 1209 người tham gia, 983 (81,3%) phụ nữ cuối cùng đã sinh thành công bằng phương pháp sinh thường trong khi 226 (18,7%) phụ nữ kết thúc bằng phẫu thuật lấy thai trong quá trình sinh. Thời gian trung bình của toàn bộ giai đoạn chuyển dạ ở nhóm bà mẹ sinh lần đầu [9,38 (6,33,14,10) giờ] dài hơn đáng kể so với nhóm bà mẹ đã sinh [5,08 (3,00,7,83) giờ] (P < .001). Các yếu tố sau đây có liên quan độc lập với thời gian chuyển dạ dài hơn: gây tê ngoài màng cứng (P < .001), sinh lần đầu (P < .001), theo dõi thai nhi điện tử liên tục (P = .035), và tăng cân lúc sinh (P = .005).

Kết luận

Các can thiệp y tế trong khi sinh trở thành thực hành sản khoa phổ biến tại các đô thị Trung Quốc. Các biến số đa yếu tố có liên quan độc lập với thời gian chuyển dạ dài hơn đã được xác định, bao gồm gây tê ngoài màng cứng, sinh lần đầu, theo dõi thai nhi điện tử liên tục, và tăng cân lúc sinh. Cần nghiên cứu thêm để xác thực các biến số này và xác định các yếu tố có thể điều chỉnh trong quản lý chuyển dạ. Các mô hình chăm sóc có tỷ lệ can thiệp thấp, chẳng hạn như các mô hình chăm sóc do nữ hộ sinh dẫn dắt, nên được phát triển và thực hiện tại Trung Quốc.

Gắn kết mẹ - thai nhi ở phụ nữ mang thai người Ý: Những ảnh hưởng đa chiều và mối liên hệ với việc chăm sóc trẻ sơ sinh trong năm đầu đời Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắt Thông tin nền

Gắn kết mẹ - thai nhi (MFA) mô tả các khía cạnh về nhận thức, cảm xúc và hành vi trong mối quan hệ giữa mẹ và thai nhi phát triển trong suốt thời gian mang thai.

Chúng tôi trình bày hai nghiên cứu thực hiện trên phụ nữ mang thai người Ý. Trong Nghiên cứu I, chúng tôi hướng tới việc khám phá những mối liên hệ đa diện của MFA với các biến quan trọng cho một thai kỳ khỏe mạnh (ví dụ: sức khỏe tâm thần của mẹ, mối quan hệ của cặp đôi). Trong Nghiên cứu II, chúng tôi điều tra vai trò dự đoán của MFA đối với việc chăm sóc trẻ sơ sinh mà mẹ thực hiện trong những tháng đầu đời của trẻ.

Phương pháp

Trong Nghiên cứu I, 113 phụ nữ mang thai người Ý đã được đánh giá về MFA (Thang đo Gắn kết Mẹ Từ Giai Đoạn Thai Kỳ, MAAS), trầm cảm ở mẹ (Bảng đánh giá trầm cảm Beck - phiên bản II, BDI-II), lo âu ở mẹ (Thang đo lo âu trạng thái và phẩm chất – phiên bản trạng thái, STAI), sự điều chỉnh của cặp đôi (Thang đo điều chỉnh đôi, DAS) và sự chăm sóc cha mẹ mà họ cảm nhận được (Công cụ Nối kết Cha Mẹ, PBI). Trong Nghiên cứu II, 29 cặp mẹ - trẻ sơ sinh được theo dõi khi trẻ 4 tháng tuổi để đánh giá các biến quan sát liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh của mẹ thông qua Thang đo Sẵn có Cảm xúc (EAS) và để kiểm tra sự liên quan với MFA trong thai kỳ.

Kết quả

Nghiên cứu I cho thấy một mối liên hệ đáng kể giữa MFA và chất lượng mối quan hệ của cặp đôi (β = .49, P < .001) và giữa MFA và hồi tưởng về những kỷ niệm về sự chăm sóc nhận được trong thời thơ ấu (β = .22, P = .025). Nghiên cứu II cho thấy ảnh hưởng dự đoán của MFA đối với cấu trúc hành vi chăm sóc của mẹ quan sát được trong các tương tác giữa mẹ và trẻ sơ sinh ở 4 tháng tuổi (β = 0.36, P = .046).

Kết luận

Nghiên cứu chỉ ra những bối cảnh mối quan hệ quan trọng có thể nhận được sự chăm sóc và hỗ trợ trong suốt thời kỳ mang thai để bảo vệ MFA. Các phát hiện cũng cung cấp những cái nhìn sâu sắc về vai trò của MFA trong việc chăm sóc trẻ sơ sinh ở giai đoạn đầu, cho thấy rằng MFA có thể là một ứng cử viên cho một yếu tố có thể trước đó trong các quá trình tương tác giữa mẹ và trẻ.

KHẢO SÁT TỈ LỆ TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN PHỤ NỮ MANG THAI Ở 3 THÁNG CUỐI THAI KỲ TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Phụ nữ mang thai bị trầm cảm thường có diễn tiến nặng hơn phụ nữ không mang thai vì sự xuất hiện trạng thái lo âu rõ rệt, thậm chí có cơn hoảng loạn, có thể xuất hiện ý định tự hủy hoại bản thân, tự tử. Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan trầm cảm ở phụ nữ mang thai 3 tháng cuối tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương bằng việc sử dụng thang đo trầm cảm EPDS. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang đánh giá nguy cơ trầm cảm khảo sát qua 310 phụ nữ mang thai từ ≥ 28 tuần đến khám thai tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong giai đoạn 20/01/2021 – 20/04/2021. Thang đo EPDS phiên bản tiếng Việt sử dụng sàng lọc nguy cơ trầm cảm ở tất cả phụ nữ mang thai 3 tháng cuối, với điểm cắt ≥ 13 điểm được xem là có nguy cơ trầm cảm trước sinh. Các thai phụ có nguy cơ cao được theo dõi bởi chuyên khoa tâm thần và bác sĩ sản khoa cho đến khi sinh và đánh giá các biến cố khi sinh. Kết quả: Tỷ lê thai phụ mang thai giai đoạn ≥28 tuần có nguy cơ trầm cảm trước sinh (EPDS ≥ 13) chiếm 28,7% [KTC95%: 23,2 – 33,5]. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến sự xuất hiện trầm cảm trước sinh bao gồm: thai phụ thuộc nhóm tuổi >25 tuổi tăng nguy cơ TCTS gấp 3,9 lần (KTC 95%: 1,3 - 12,5, p=0,018), thai phụ không tôn giáo và có tình trạng kinh tế khó khăn (tăng TCTS lần lượt là 7,01 lần [KTC 95%: 1,1 - 8,1, p=0,036]  và 3,03 lần [KTC 95%: 1,1 - 8,1, p=0,026]. Trạng thái tinh thần không ổn định (thai phụ có lo lắng trong quá trình mang thai), các xung đột trong mối quan hệ (bất hoà với gia đình chồng và thiếu người tâm sự) làm tăng nguy cơ TCTS lần lượt  8,5 lần [KTC 95%: 3,9-18,3; p=0,000] 6,3 lần [KTC 95%: 1,6-25,3; p=0,009] và gấp 2,7 lần [KTC 95%: 1,2-6,1; p=0,019]. Thai phụ không nhận được tư vấn từ cán bộ Y tế tăng nguy cơ TCTS gấp 2,5 lần [KTC 95%:1,1-5,4; p=0,019]. Kết luận: Trầm cảm trước sinh cần được sàng lọc và điều trị kịp thời để hạn chế các kết cục thai kỳ xấu cho thai phụ và thai nhi. Sử dụng thang đo EPDS với điểm cắt ≥ 13 là một công cụ hữu hiệu trong tầm soát nguy cơ trầm cảm trước sinh.
Nghiên cứu so sánh hiệu quả của dexmedetomidine và fentanyl đối với lo âu và đau đớn của sản phụ với các kiểu gen COMTval158met khác nhau Dịch bởi AI
BMC Anesthesiology - Tập 22 Số 1 - 2022
Tóm tắt Mục tiêu

Nghiên cứu này điều tra tác động của đa hình gien COMTval158met lên lo âu và đau đớn của người mẹ trong quá trình sinh nở và hiệu quả giảm đau và giảm lo âu của dexmedetomidine trong khi sinh.

Phương pháp

Quy tụ 61 phụ nữ mang thai, những người đã được nhập viện tại bệnh viện của chúng tôi từ tháng Giêng đến tháng Mười Một năm 2016, được tuyển chọn và chia ngẫu nhiên thành hai nhóm, nhóm F và nhóm D. Những phụ nữ mang thai trong nhóm F được giảm đau trong chuyển dạ bằng ropivacaine kết hợp với fentanyl. Những phụ nữ mang thai trong nhóm D được giảm đau trong chuyển dạ bằng ropivacaine kết hợp với dexmedetomidine. Trước và sau khi giảm đau trong chuyển dạ, kiểu gen COMT trong máu từ hai nhóm đã được phát hiện và tình trạng lo âu và giảm đau trong chuyển dạ được phân tích. Sau đó, mối quan hệ giữa lo âu trong chuyển dạ, giảm đau và đa hình gien COMT được phân tích.

Kết quả

Trong số 61 phụ nữ mang thai, có 30 phụ nữ là đồng hợp tử hoang dã (GG) của COMT, 22 phụ nữ là dị hợp tử biến đổi (GA), và chín phụ nữ là đồng hợp tử biến đổi (AA), tỉ lệ đột biến của allele A là 23.77%. Điểm số trạng thái lo âu, điểm số đặc điểm lo âu và điểm số đau trong kiểu gen AA cao hơn đáng kể so với kiểu gen GG và GA (p < 0.05). Có sự khác biệt đáng kể về hiệu quả điều trị lo âu chuyển dạ giữa các kiểu gen GG và AA giữa nhóm D và F (p < 0.05), hiệu quả của nhóm D tốt hơn nhóm F trong việc điều trị lo âu khi sinh, không có sự khác biệt đáng kể về điểm số lo âu giữa hai nhóm trong các kiểu gen GA (p > 0.05); không có sự khác biệt đáng kể về độ đau giữa nhóm D và F trong các kiểu gen GG, GA, và AA (p > 0.05). Không có sự khác biệt đáng kể về điểm số đau và lo âu giữa ba kiểu gen trong nhóm D (p > 0.05), có sự khác biệt đáng kể về điểm số đau giữa ba kiểu gen trong nhóm F (p < 0.05), nhưng không có sự khác biệt đáng kể về lo âu (p > 0.05).

Kết luận

Đột biến của gien COMTval158met dẫn đến tăng cường lo âu và đau đớn trong quá trình sinh nở. Tác động của dexmedetomidine đối với lo âu của các kiểu gen GG và AA tốt hơn so với fentanyl, và đột biến của gien COMTval158met không ảnh hưởng đến hiệu quả của dexmedetomidine.

#COMTval158met #lo âu #giảm đau #phụ nữ mang thai #dexmedetomidine #fentanyl
TÌNH TRẠNG THIẾU MÁU, THIẾU SẮT VÀ THIẾU VITAMIN A Ở PHỤ NỮ TRƯỚC KHI MANG THAI TẠI HUYỆN CẨM KHÊ TỈNH PHÚ THỌ
Mục tiêu: Xác định tình trạng thiếu máu, thiếu sắt và thiếu vitamin A (Vit. A), ở phụ nữ trước khi mang thai lần đầu (PNTKMTLĐ) ở Cẩm Khê tỉnh Phú Thọ (CK-PT). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu điều tra cắt ngang trên 411 phụ nữ tuổi từ 18-30 chưa từng có thai sống tại CKPT. Tình trạng sắt được đánh giá bằng các chỉ số: Transferrin receptor, Ferritin, lượng sắt trong cơ thể, chỉ số CRP, AGP để loại trừ nhiễm trùng. Chỉ số Hb được dùng để đánh giá tình trạng thiếu máu. Tình trạng Vit.A được đánh giá bằng các chỉ số: Vit.A huyết thanh và Retinol-Binding Protein (RBP). Kết quả: Tỷ lệ thiếu sắt cạn kiệt ở nhóm thiếu máu (10,1%) cao hơn so với nhóm không thiếu máu (3,2%) với p<0,01. Ở nhóm thiếu sắt, nồng độ RBP (1,06 ± 0,39 μmol/L) thấp hơn so với nhóm không thiếu sắt (1,15 ± 0,41 μmol/L) và nồng độ CRP: 0,3 (0,1; 0,9) mg/L cao hơn so với nhóm không thiếu sắt (p<0,01). Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu của PNTKMTLĐ ở CK-PT là 20,7% thuộc mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, trong đó 43,0% không nhiễm trùng bị thiếu sắt; Tỷ lệ thiếu sắt: 37,9%; Tỷ lệ thiếu Vit.A:10,2%.
#Thiếu máu #thiếu sắt #thiếu vitamin A #phụ nữ 18-30 tuổi #phụ nữ trước mang thai #phú thọ
THỰC HÀNH DINH DƯỠNG VÀ MỨC TĂNG CÂN TRONG THAI KỲ CỦA PHỤ NỮ MANG THAI TẠI HÀ NỘI NĂM 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực hành dinh dưỡng và mức tăng cân trong thai kỳ của phụ nữ mang thai tại Hà Nội năm 2020. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ tham gia nghiên cứu có BMI ở giới hạn bình thường trước khi mang thai chiếm tỷ lệ cao nhất là 80,2%. Phụ nữ có BMI<18,5 và BMI≥ 25 chiếm tỷ lệ lần lượt là 15,8% và 4%. 97,7% phụ nữ tham gia nghiên cứu bổ sung thực phẩm chức năng trong thai kỳ. Tỷ lệ phụ nữ tăng mức tiêu thụ thịt, cá, trứng, đậu đỗ ở 3 giai đoạn thai kỳ chiếm tỷ lệ cao nhất, tương ứng với 93,7%; 95,7% và 96,4%. Tỷ lệ tăng cân đúng mức khuyến nghị của IOM năm 2009 của phụ nữ thiếu cân, cân nặng bình thường và thừa cân/béo phì lần lượt là 22,9%; 40,3% và 50%. Phụ nữ có BMI< 18,5 trước khi mang thai có mức tăng cân dưới mức khuyến nghị chiếm 66,7%. Nhóm phụ nữ có BMI ≥ 25 trước mang thai có tỷ lệ tăng cân trên mức khuyến nghị cao nhất, chiếm 41,7%. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy thực hành dinh dưỡng và mức tăng cân thai kỳ của phụ nữ Hà Nội trong quá trình mang thai năm 2020.
#Thực hành dinh dưỡng #tăng cân thai kỳ #phụ nữ mang thai #Hà Nội
Trầm cảm ở phụ nữ mang thai và một số yếu tố liên quan tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 1 - Trang 62 - 67 - 2016
Trầm cảm trong thai kỳ là một rối loạn tâm thần phổ biến ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tỷ lệ trầm cảm trong mang thai và một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trong mang thai. Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu thuần tập với 1274 phụ nữ mang thai tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Những phụ nữ này được phỏng vấn hai lần: lần đầu khi thai dưới 24 tuần và lần thứ hai khi thai được 30 đến 34 tuần. Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm trong mang thai là 5% (95%CI: 3,77-6,16). Các yếu tố liên quan với trầm cảm trong mang thai bao gồm bạo lực gia đình, tiền sử thai lưu, lo âu trong mang thai và hỗ trợ gia đình trong khi mang thai. Kết luận: Những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết phải sàng lọc trầm cảm và các yếu tố nguy cơ trong khi mang thai ở những nơi chăm sóc sẵn có để cải thiện sức khỏe bà mẹ và thai nhi.
#Trầm cảm ở phụ nữ mang thai #yếu tố liên quan #yếu tố nguy cơ #tỷ lệ.
Depression among pregnant women and some related factors in Dong Anh district, Ha Noi City
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 1 - Trang 62 - 67 - 2016
Trầm cảm trong thai kỳ là một rối loạn tâm thần phổ biến ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tỷ lệ trầm cảm trong mang thai và một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trong mang thai. Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu thuần tập với 1274 phụ nữ mang thai tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Những phụ nữ này được phỏng vấn hai lần: lần đầu khi thai dưới 24 tuần và lần thứ hai khi thai được 30 đến 34 tuần. Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm trong mang thai là 5% (95%CI: 3,77-6,16). Các yếu tố liên quan với trầm cảm trong mang thai bao gồm bạo lực gia đình, tiền sử thai lưu, lo âu trong mang thai và hỗ trợ gia đình trong khi mang thai. Kết luận: Những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết phải sàng lọc trầm cảm và các yếu tố nguy cơ trong khi mang thai ở những nơi chăm sóc sẵn có để cải thiện sức khỏe bà mẹ và thai nhi.
#Trầm cảm ở phụ nữ mang thai #yếu tố liên quan #yếu tố nguy cơ #tỷ lệ.
Mang Thai Qua Gương: Các Yếu Tố Liên Quan Đến Thái Độ Ăn Uống Rối Loạn Trong Một Mẫu Phụ Nữ Mang Thai Ở Liban Dịch bởi AI
BMC Psychiatry - Tập 23 Số 1
Tóm tắt Giới thiệu

Mặc dù có nguy cơ của rối loạn ăn uống trong thai kỳ đối với cả mẹ và thai nhi, nhưng nghiên cứu về chủ đề này vẫn còn ít ỏi ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở Liban. Mục tiêu của nghiên cứu của chúng tôi là tìm hiểu những yếu tố dự đoán thái độ ăn uống rối loạn trong thai kỳ ở một mẫu phụ nữ mang thai của Liban, đồng thời đánh giá tác động trung gian tiềm năng của sự không hài lòng về cơ thể giữa các yếu tố tâm lý xã hội và thái độ ăn uống rối loạn trong thai kỳ.

Phương pháp

Chúng tôi thiết kế một nghiên cứu cắt ngang, dựa trên các biện pháp tự khai báo. Phụ nữ mang thai từ 18 tuổi trở lên đã được tuyển chọn từ tất cả các tỉnh của Liban thông qua một cuộc khảo sát trực tuyến (N = 433).

Kết quả

Các kết quả cho thấy rằng các vấn đề cụ thể trong thai kỳ cao hơn (Beta = 0.19), ảnh hưởng của truyền thông và người nổi tiếng mang thai (Beta = 0.22), và sự không hài lòng về cơ thể (Beta = 0.17) có mối liên hệ đáng kể với thái độ ăn uống rối loạn tăng cao trong thai kỳ; trong khi đó, sự hỗ trợ xã hội được cảm nhận cao hơn (Beta = -0.03), tình trạng kinh tế xã hội thấp hơn (Beta = -0.84), và tình trạng mang thai nhiều lần (Beta = -0.96) có mối liên hệ đáng kể với thái độ ăn uống rối loạn thấp hơn trong thai kỳ. Sự không hài lòng về cơ thể đã trung gian hoá mối liên hệ giữa các vấn đề cụ thể trong thai kỳ và thái độ ăn uống rối loạn, và giữa những lo ngại về ngoại hình xã hội và thái độ ăn uống rối loạn.

Kết luận

Nghiên cứu của chúng tôi nêu bật rằng việc chăm sóc thai sản, đặc biệt là ở Liban, không nên chỉ giới hạn trong việc theo dõi sinh học mà còn cần tìm cách xác định các rối loạn ăn uống có thể xảy ra và các mối đe dọa đến sức khỏe tâm thần. Các nghiên cứu tiếp theo với thiết kế theo chiều dọc nên tiếp tục xác định các yếu tố liên quan đến rối loạn ăn uống trong thai kỳ trong bối cảnh lâm sàng, nhằm củng cố các chương trình sàng lọc và xây dựng các chiến lược điều trị nhằm mục tiêu.

Thực trạng chẩn đoán và điều trị thuốc kháng HIV cho phụ nữ mang thai nhiễm HIV sinh con tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 2 - Trang 75 - 79 - 2017
Nghiên cứu này có các mục tiêu cụ thể sau: 1) Mô tả thực trạng chẩn đoán sớm; và 2) Đánh giá tình hình sử dụng thuốc kháng HIV trong số sản phụ nhiễm HIV đẻ tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương từ 2012 đến 2014. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả chọn mẫu toàn bộ các sản phụ nhiễm HIV đẻ trong thời gian từ 1/2012 đến 12/2014, tuổi thai ≥ 22 tuần, trẻ đẻ sống. Kết quả: Tỷ lệ sản phụ được phát hiện nhiễm HIV trước khi có thai tăng dần, từ 60,9% năm 2012 lên 63,8% năm 2013 và 73,3% năm 2014. Tỷ lệ phát hiện trong khi có thai và khi chuyển dạ giảm qua các năm. Số sản phụ được sử dụng thuốc chiếm tỷ lệ cao 98,5%. Tỷ lệ điều trị 3 thuốc tính chung là 67,9%; tăng qua các năm, đặc biệt cao trong năm 2014 (75,2%). Tỷ lệ chỉ được phòng lây truyền mẹ-con khi chuyển dạ đã giảm, nhưng vẫn còn chiếm đến 9,9% năm 2014. Có rất ít (1,5%) không được sử dụng thuốc. Kết luận: Thực trạng chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị kết hợp 3 thuốc đã được cải thiện đáng kể qua các năm 2012-2014.    
#nhiễm HIV #sinh con #chẩn đoán sớm #điều trị thuốc kháng HIV.
Tổng số: 104   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10